Gián án Thuyết minh về bánh ít lá gai (chọn lọc) – Tài liệu text

Rate this post

Gián án Thuyết minh về bánh ít lá gai (chọn lọc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.18 KB, 4 trang )

“Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi”
(Ca dao )

Câu ca dao từ lâu đã trở nên quen thuộc của người dân Bình Định. Quen thuộc không phải ở nội dung tâm sự của người con
gái muốn về làm dâu xứ “nẫu” mà quen thuộc bỡi chiếc bánh ít lá gai- một đặc trưng của xứ dừa Bình Định.

Vâng! Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc
trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc
trưng bỡi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại.

Đến những huyền thọai đẫm chất nhân sinh

Theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu- con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để
cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng
con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Ut ít, vốn rất gioi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã
nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới. Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày,
vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới
này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.

Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng
bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, một thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như
bánh chưng để đạt được ý nghĩa “tuy hai mà một”. Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường
với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị.

Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa “tuy một
mà hai, tuy hai mà một” của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền
trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít để phân biệt với bánh chàng Lang Liêu, tức là bánh dày và
bánh chưng.

Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít,

rồi thành bánh ít như ngày nay.

Cũng có người giai thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ : Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen,
thứ nhân dừa, nhân đậu… nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ,
thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao:

Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít
Trầu có đầy sao gọi trầu không?

cũng bắt nguồn từ sự tích như vậy.
Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp
Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo môt đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít.Và
thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:

Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà.

Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới,
cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu
thảo. Món quà tuy “ít”, nhưng là “của ít lòng nhiều”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo
léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.

Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc ,lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình,
vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ít” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không
có gì bằng!

Có lẽ chính vì thế mà nghề làm bánh ít ngày nay vẫn được lưu truyền khá nhiều ở nông thôn Bình Định. Nó không chỉ đơn
thuần mang lại những khoản thu nhập nho nhỏ cho người dân mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc gìn giữ giá trị truyền thống,
giá trị giáo dục lòng yêu thương, tôn kính cha mẹ và rèn luyện tính kiên trì khéo léo cho con cái.

– Và những cách làm nên tình bánh

Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bĩ và khéo léo.

Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ,
sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo.

Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵng ở các hàng rào
quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã
chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.Tiếp đến là công đoạn làm nhân “nhưng” bánh.”Nhưng” bánh ít lá
gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột va-ni cho thơm. Đậu xanh đem xay bửa đôi rồi ngâm và đãi cho sạch
vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới
mới trộn tiếp đậu xanh. Xào “nhưng” trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, ”nhưng“ có màu vàng sẫm, dẻo quánh,
mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.

Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải khéo léo. Sau khi đã xào “nhưng” xong, ngắt một miếng bột nếp, tẻ thành bánh mỏng
hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay.
Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa
đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới
gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến
rũ, huyền bí.

Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhưng dừa đường hoặc
nhưng tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong… và đều làm chín bằng
phương pháp hấp như trên, song người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhưng dừa hoặc nhưng đậu xanh gói lá
chuối rồi mới đem đi hấp.

Vĩ thanh cho một món quà quê

Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai ( còn trong lễ tết thì không có bánh ít mà thay bằng bánh

tét ). Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác
biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định .

Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, song người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít
lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con
cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền.

Thiết nghĩ trong bộ môn kỹ thuật bậc trung học, cũng nên đưa cách làm bánh ít vào giảng dạy cho học sinh, bỡi đây không đơn
thuần là một nghề, mà là một nét đẹp văn hoà cần lưu truyền và gìn giữ
Bánh ít lá gai Bình Định dẻo nhưng không dính răng. Cắn một miếng, đầu lưỡi sẽ thấy ngay vị ngọt của đường, vị thơm của nếp, vị béo của
dầu, vị bùi của đậu, hương cay nồng của gừng, tạo một cảm giác khoái khẩu và rất riêng
Bánh này còn gọi là bánh ít đất võ, được gói bằng lá chuối tơ, mướt dịu. Bánh làm rất công phu. Thoạt tiên, chọn lá gai trồng trong vườn. Lá
phải có hình trái tim, hơi xốp, và khô. Làm một trăm bánh ít phải hái đến hai ba thúng lá gai. Lá đem rửa sạch, luộc chín, để thật ráo nước rồi
đem vào cối giã nhuyễn. Phải là trai lực lưỡng mới đủ sức quết. Gọi là quết vì là cần nhuyễn như bột nên phải giã lâu. Bấy giờ mới đem bột
nếp, thứ nếp thơm dẻo, trộn với đường bánh màu đen, sau đó đổ bột nếp vào cối. Quết tiếp hai ba chày đến khi phải thoa dầu phộng, hoặc
dầu dừa vào đầu chày để bột khỏi dính và dầu được trộn đều.
Nhân bánh, có thể dùng đậu xanh, đậu đen hay cơm dừa nạo nấu chín với đường, đôi khi người ta dùng tôm xào với thịt để làm nhân, đó là
loại bánh ít mặn. Lá chuối cắt khoanh tròn, hơ lửa cho mềm, thoa dầu phộng và gói bánh thành hình tháp vuông rồi đem hấp cách thủy.
Nhìn chiếc bánh người ta có thể biết được độ ngon của bánh và kỹ thuật gói của người con gái đất võ. Bánh ít lá gai thật dẻo nhưng không
dính răng. Cắn một miếng, đầu lưỡi sẽ thấy ngay vị ngọt của đường, vị thơm của nếp, vị béo của dầu, vị bùi của đậu, hương cay nồng của
gừng, tạo một cảm giác khoái khẩu và rất riêng.
Bạn có thể ăn nhiều bánh ít lá gai mà không sợ đau bụng. Theo lời giải thích của người dân đất võ thì trong lá gai có vị thuốc chống đau bụng,
đặc biệt là vị gừng tạo độ ấm và lá gai còn tác dụng chữa trị bệnh no hơi. Ở vùng Tam Quan (Hoài Nhơn) là xứ dừa nên thường nhân bánh ít
được làm bằng bánh dừa xay nhỏ. Ăn bánh ít lá gai Tam Quan, có vị béo lẫn vị ngọt không sao quên được. Ở vùng gần biển thì nhân bánh ít
làm bằng tôm và thịt. Giống tôm rằn vị ngọt đậm đà xào với thịt ba chỉ, thêm một ít muối, hành, tiêu thành hương vị biển.
Bánh ít lá gai là đặc sản của Bình Định. Sau này, cách làm bánh lan rộng khắp vùng ven biển miền trung. Bánh ít lá gai Bình Định
nổi tiếng vì hương vị thơm ngon. Khi đi chơi xa hay thăm người thân, người Bình Định thường làm, hoặc mua vài ba chục bánh
mang theo ăn dọc đường, hoặc để biếu, làm quà. Dù để năm, sáu ngày sau, bánh vẫn ngon.Nhất là vào những ngày Tết Nguyên
đán, mồng Một, Rằm, Tết Đoan Ngọ (5-5) người Bình Định, rồi cả Quảng Ngãi, Quảng Nam, Phú Yên… đều làm, hay mua ba bốn
chục chiếc bánh ít lá gai để cúng tổ tiên.Ông bà thường dặn con cháu: “”Con gái Bình Định không biết làm bánh ít lá gai thì chưa

thể làm dâu nhà chồng””. Làm nên chiếc bánh phải kỳ công, vất vả cùng với sự khéo léo, thành thục.Nguyên liệu phải đủ năm thứ:
lá gai, gạo nếp, đường, đậu xanh và lá chuối. Lá gai luộc chín, cho vào cối quết nhuyễn. Gạo nếp giã, xay, nghiền thành bột.
Đường thì nấu đến độ đặc sánh. Ba thứ nguyên liệu đó trộn, nhồi thật đều, rồi đem chia ra thành từng miếng. Đậu xanh đãi vỏ,
đem hấp, giã mịn, viên tròn dùng làm nhân. Nhân điểm mấy miếng bí đao xắt hạt lưu, lá chuối hơ lửa gói bánh. Cho vào nồi hấp
chín. Để nguội, khi ăn bóc lớp lá chuối, chiếc bánh lộ ra một mầu đen tuyền, bóng láng.
Thưởng thức miếng bánh ta thấy được vị thơm rất đặc trưng, tinh khiết của lá gai, của gạo nếp, của đường, đậu xanh hòa quyện
vào nhau. Bánh ít lá gai – thứ bánh dân dã mà ngon ngọt, đậm đà, quyến rũ. Mỗi khi nhớ về xứ dừa Bình Định, người xa quê lại
nao nao nhớ về vị thơm ngọt của bánh ít lá gai.
Bình Định là một tỉnh thuộc khu vực duyên hải miền Trung.Xưa kia, người Bình Định đã từng nổi tiếng về tài
sáng tạo và sự khéo léo trong ẩm thực, ấy thế nên đã có câu ca dao:
“Tiếng đồn Bình Định có tài
Nấu một chén gạo nổi hai cũng đầy”
Và nhắc đến đặc sản Bình Định người ta không thể quên nhắc về bánh ít lá gai,một đặc sản của người dân nơi
đây!
Để có chiếc bánh ít lá gai thật ngon, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, đòi hỏi sự khéo léo và tỉ mẩn.
Đầu tiên là phải chọn loai nếp mới, thơm, độ dẻo vừa phải đem vo kỹ, ngâm trong nước lạnh vài giờ, để ráo nước sau đó xay
nhuyễn.
Kế đó là chọn lá gai. Chiếc bánh ít lá gai có màu xanh đen đặc trưng, vị thơm mát là nhờ vào hương vị đặc biệt của chiếc lá gai.
(Cây lá gai thường mọc sẵn ở các hàng rào quanh nhà, rất phổ biến ở Bình Định). Khi hái lá gai, người ta chú ý chọn lấy loại bánh
tẻ sau đó rửa sạch rồi luộc chín, vắt lấy nước đem trộn với bột nếp thành một khối dẻo. Để bánh dẻo hơn nữa, người ta đem bột
đã trộn với nước cốt lá gai giã thêm lần nữa. Đây là công đoạn mất khá nhiều sức. Vì nếu giã không nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo
cảm giác khó chịu, không ngon.
Tiếp đến là công đoạn làm nhân (nhưn) bánh. Nhân bánh bao gồm đậu xanh, đường, dừa, một chút bột quế hoặc bột va-ni cho
thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm, đãi với nước lạnh cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa bào ra thành từng sợi nhỏ,
bỏ vào chảo gang xào chung với đường cho chín tới, đem trộn tiếp đậu xanh. Hỗn hợp trên được xào với lửa liu riu cho đến khi
chuyển màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.
Sau khi đã xào nhân xong, ngắt một miếng bột nếp, ép mỏng thành hình tròn trên lòng bàn tay, cho một nhúm nhân vào giữa, túm
bốn bên lại cho khít mối, dùng hai tay vo tròn. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhân bánh thành một khối. Để cho bánh khỏi dính,
người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi,
người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối.

Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.
Bánh ít lá gai mang vị thơm rất đặc trưng, đó là vị tinh khiết của lá gai, vị dẻo thơm của gạo nếp, vị ngọt của đường, vị bùi đậu
xanh hoà quyện vào nhau. Tuy đơn sơ mộc mạc nhưng rất gần gũi. Đây là thứ bánh không thể thiếu trong những ngày cưới xin,
giỗ kỵ, lễ tết… của người dân Bình Định.
Phân lượng này làm được khoảng 10 cái bánh cỡ 10x10cm, dày chừng 2cm.
– 500gr lá gai tươi.
– 500gr bột nếp – 100gr bột sắn.
– 300gr đậu xanh cà (đậu xanh hột đã làm sạch vỏ và tách làm hai)
– 300gr đường trắng.
– 150gr dừa khô nạo sợi thật nhỏ.
– 30gr mè trắng.
– 100gr mỡ gáy heo.
– Dầu ăn.
– Nước hoa bưởi (tùy ý sử dụng hay không).
– Chuẩn bị ít lá chuối tươi, rọc bỏ cuống, trải phơi cho lá khô úa, cắt miếng cỡ 20x30cm. Lạt tre mềm hoặc
dây nhựa tương tự dùng để cột.
– Xửng hấp.
THỰC HÀNH
1. LÀM VỎ BÁNH
– Chọn lá gai tươi, sắc lá xanh đậm, không non không già. Nếu lá non quá thì không đủ bột lá còn già quá lại
nhiều xơ khó giã cho mịn. Xé làm hai, tước bỏ xơ, bỏ sống lá, rửa sạch, luộc cho lá thật mềm nhừ vớt ra, để
nguội, vẩy cho thật ráo nước. Cho vào cối hoặc máy nghiền từng ít một, giã cho lá nhuyễn mịn. Lưu ý phải
giã thật mịn nếu không bánh sau khi làm sẽ lợn cợn. Sau khi luộc và giã mịn bột gai lá sẽ có màu xanh đen
rất đậm.
– Có thể dùng máy xay cắt có dao hình chữ S để xay cắt lá nhiều lần cho thật nhuyễn mịn.
– Trộn đều bột nếp + bột sắn. Nhồi hoặc quết đều hỗn hợp bột với lá gai đã giã mịn. Phải nhồi quết thật kỷ,
nếu không hỗn hợp bột sẽ bị lợn cợn làm vỏ bánh không mịn.
– Nấu tan 150gr đường với chừng ¼ lít nước, để nguội. Dùng nước đường cho vào từ từ hỗn hợp bột + lá gai,
nhồi kỷ cho thật mịn bóng, hỗn hợp vừa dẻo là được. Tùy chất lượng bột, không nhất thiết phải dùng hết
lượng nước đường.

– Nếu thích vỏ bánh ngọt nhiều thì tăng lượng đường trong khoảng 50gr. Bánh ngọt nhiều sẽ để được lâu
hơn.
– Chia lượng bột vỏ bánh này làm 10 phần đều nhau.
– Mè rang vàng, để nguyên vỏ.
2. NHÂN BÁNH
Bánh gai – ảnh T.C
– Đậu xanh cà ngâm nước nóng khoảng 2 giờ, hong chín, giã nhuyễn mịn.
– Mỡ gáy heo luộc chín, xắt hạt lựu nhỏ, trộn với khoảng 2 muỗng cà phê đường cát trắng, để chỗ thoáng
cho đến khi tan đường, mỡ trở trong. Vớt lấy phần mỡ, bỏ nước đường dư.
– Dừa nạo sợi trụng qua nước sôi, để ráo.
– Trộn đều hỗn hợp đậu xanh, mỡ hạt, dừa với khoảng 150gr đường còn lại. Nếu thích cho vào hỗn hợp nhân
vài giọt tinh dầu hoa bưởi.
– Chia đều nhân thành 10 phần.
– Trong phần nhân bánh có người chỉ làm thuần túy với đậu xanh tán nhuyễn chứ không dùng dừa nạo và
mỡ gáy heo nhưng cũng có người chỉ dùng dừa để làm nhân và để làm bánh chay thì họ không dùng mỡ gáy
heo.
3. GÓI VÀ HẤP BÁNH
– Lau sạch lá chuối khô bằg khăn ướt cho lá dịu xuống; chuẩn bị ít dầu thực vật, rửa sạch tay, xoa tay với ít
dầu.
– Nhấn dẹp từng phần bột vỏ ra cho dày đều, đặt một phần nhân vào giữa miếng bột vỏ, bọc lại phần bột vỏ
rồi vo tròn lại cho đều sao cho phần vỏ có độ dày đồng đều bao quanh nhân, lăn bánh vào mè.
– Lót từ hai đến ba miếng lá chuối xếp mí lên nhau liền lạc, thoa lên mặt lá trong cùng ít dầu ăn rồi đặt viên
bánh vào giữa, ấn hơi dẹp ra rồi xếp kín bốn cạnh lá thành hình vuông cạnh khoảng chừng 10cm xong rồi
vuốt ép cho bánh chạy trải đều bên trong lớp lá, gói thêm ra ngoài ba bốn lớp lá nữa và lưu ý một lần gói là
một lớp lá xoay ngược mí xếp vào nhau chứ không phải chồng bốn lần lá lên và xếp bốn mí cùng một lúc, có
vậy bánh mới thật kín gói cho thật kín. Xếp hai bánh thành một cặp hoặc 4 – 5 cái gì cũng được miễn sao
cho phần mí lá mỗi bánh ép vào nhau, dùng lạt ràng lại vừa chắc tay kẻo rách lá.
– Hấp bánh trong xửng nhiều nước và để sôi lớn lửa, xếp thưa bánh và không quá hai chồng bánh để bánh
dễ chín đều. Hấp khoảng 30 phút sau khi nước sôi là được. Lấy bánh ra, để bánh ra chỗ thoáng gió cho lá
mau ráo khô.

* Bánh gai muốn để lâu, phải tăng lượng đường cho vỏ bánh gọt gắt và láng nhiều dầu vào lá gói. Bánh mới
làm qua 2 – 3 ngày mà bị chảy nhựa hoặc mốc là do chất lượng bột nhồi không kỷ và thiếu đường.
Chiếc bánh ít lá gai ngoại nấu có mùi lá gai thơm ngan ngát, lớp bột mềm mịn, dai nhưng không dính lưỡi, dính tay,
nhân và bánh ngọt quyện vào nhau.
Tôi là một kẻ đạo nếp. Tôi có thể ăn xôi thay cơm. Và tôi nghiền ăn các loại chè, bánh làm từ nếp. Ngay từ thuở bé,
tôi đã được mẹ mớm cho những miếng bánh ít ngọt lịm của quê ngoại. Mãi đến lớn, tôi mới biết đó là những chiếc
bánh ít lá gai khác hẳn với món bánh ít Nam Bộ bán nhiều tại Sài Gòn. Tác giả của những chiếc bánh ít lá gái đó
chính là bà ngoại từ Bình Định gửi vào làm quà cho cháu. Con gái lấy chồng ở Sài Gòn, sợ cháu mình quên quê
hương nên có dịp là bà gởi quà quê vào.
Tuy là “của một đồng, công một lượng” nhưng đó là cách bà yêu con, thương cháu không gì có thể so sánh được.
May mắn là mỗi dịp hè, anh em chúng tôi lại được mẹ đưa về quê ngoại. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc với cảnh
đồng ruộng với sự yêu chiều của bà ngoại. Dĩ nhiên, đó cũng chính là lúc tôi được ăn no nê với những chiếc bánh ít
đen óng, lấm tấm mè tuyệt ngon của bà.
Để làm món bánh ít cho cháu từ Sài Gòn về quê, ngoại dậy từ sớm, đi ra sau vườn cắt lá gai. Lá gai thoạt nhìn khá
giống dâu tằm ăn mọc đầy khắp ngõ quê. Ngoại cẩn thận chọn những lá gai xanh tươi, to vừa phải để trộn vào bột
bánh vừa thơm ngon lại không gây lợn cợn. Ngoại vốn là một người khó tính nên chuyện làm bánh ít lá gai là cả sự
cầu kỳ công phu không qua loa như những nhà khác. Anh em chúng tôi thường phụ ngoại cắt gân lá gai để bánh ít
có vị thơm thanh tao hơn. Lá gai cắt gân xong sẽ được đem đi luộc. Từ màu xanh tươi rói, lá gai bắt đầu chuyển
sang màu xanh đen. Sau đó, ngoại bắt đầu công việc vắt lá gai cho khô nước.
Công đoạn mà anh em chúng tôi thích nhất là nhìn bà giã bột. Tiếng chày giã vào cối nghe thậm thịch vui tai. Ngoại
tôi đã ngoài 60 tuổi nhưng vẫn còn khá khoẻ nên tự tay giã bột mà không cần nhờ con cháu. Bà vẫn thường đùa
“con gái Bình Định múa roi riết nên khỏe vậy đó”. Chúng tôi thường yêu cầu ngoại cho chúng tôi giã bột nhưng chỉ
được vài phút là chán, lại chạy ra sân chơi đùa. Lá gai được để vào cối rồi lần lượt ngoại bỏ bột nếp khô vào, rồi
thêm đường giã đều cho quyện vào nhau.
Chỉ riêng khâu bột nếp khô cũng là một nhiêu khê khác của ngoại được chuẩn bị lâu từ trước. Nếp được vo sạch,
ngâm nước và giã thành bột. Bột nếp được lọc lại nhiều lần để được một mầu trắng tinh. Nhân cho bánh ít cũng
được chuẩn bị cực khổ không kém. Đậu xanh đãi vỏ, đem nấu rồi giã nhuyễn cho mịn. Sau khi có được loại bột đen
đặc quánh ưng ý, bà bắt đầu đem đi hấp. Ngoại là một người kỹ tính nên sợ hấp một khối bột sẽ không chín đều
hoặc bị nhão nên phải chia khối bột thành nhiều miếng nhỏ như lòng bàn tay để đem hấp. Trong lúc hấp bột bà lại
thoăn thoắt chuẩn bị nhân. Dừa Tam Quan được bào nhuyễn xào với đường, đậu xanh rồi vo thành viên.

Bột hấp chín xong được ngoại gom lại nhồi thêm một lần nữa để đảm bảo lớp vỏ bánh ít mềm mịn đều như nhau.
Sau đó, mới được chia làm nhiều phần nhỏ lần thứ 2 để gói nhân. Cuối cùng là bọc lớp lá chuối thoa ít dầu phộng
và mè. Khi mở ra, chiếc bánh ít lá gai đen tuyền, óng ả và điểm xuyết màu vàng của mè. Cảm giác đầu tiên khi ăn
chiếc bánh ít lá gai của ngoại nấu là mùi lá thơm ngan ngát.
Lớp bột mềm mịn, có độ dai nhưng không dính lưỡi, dính tay như các loại bánh nếp khác. Nhân và bánh ngọt đều
như hoà quyện vào nhau. Thỉnh thoảng vị ngọt của bánh càng thêm ngất ngây khi cắn trúng phải vị bùi của hạt mè.
Mãi đến sau này, tôi mới biết đó là một cách làm công phu tỉ mỉ vì nhiều người gói bột sống vào nhân rồi đem đi hấp.
Khá là ngộ khi ngoại tôi không chăm sóc vẻ bề ngoài của chiếc bánh ít. Ngoại tôi chỉ gói bánh ít tròn, dùng lá chuối
túm 2 đầu thế là xong. Trong khi, nhiều nơi lại gói bánh ít theo hình chóp như gợi hình ảnh quê hương Bình Định với
chiếc Tháp bánh ít.
Kỳ công và cực nhọc thế đó nhưng bà lại vui vì được ngắm nhìn lũ con cháu vui cười, chạy quanh quẩn bên cối bột.
Niềm vui của bà chỉ giản dị như vậy, mong cháu về quê để gói bánh cho cháu ăn. Điều làm ngoại buồn là không thể
làm cho lũ chúng tôi món bánh ít lá gai trong dịp Tết vì chỉ có những hè được nghỉ nhiều, tôi mới về quê. Ngoại
thường gọi đây là bánh ít đen. “Ăn bánh ít đen nghĩa là nhiều đỏ rồi. May mắn suốt năm” ngoại cười móm mém nói
với chúng tôi…
rồi thành bánh ít như ngày này. Cũng có người giai thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ : Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu … nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một chút ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao : Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ítTrầu có đầy sao gọi trầu không ? cũng bắt nguồn từ sự tích như vậy. Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Tỉnh Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với thápChàm ở Tỉnh Bình Định. Hầu hết những tháp Chàm ở Tỉnh Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo môt đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Vàthực tế, tại Tỉnh Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao : Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà DiVật vô tri cũng thế huống chi tui với bà. Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của những cặp vợ chồng mới cưới. Ở Tỉnh Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng sẵn sàng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu cha mẹ ruột làm quà tặng để tỏ lòng hiếuthảo. Món quà tuy “ ít ”, nhưng là “ của ít lòng nhiều ”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéoléo, và đặc biệt quan trọng là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người. Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm niềm hạnh phúc, lo toan, tuy nhiên người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ ít ” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà tặng cho cha mẹ. Nghĩa cử ấy thật khôngcó gì bằng ! Có lẽ chính do đó mà nghề làm bánh ít thời nay vẫn được lưu truyền khá nhiều ở nông thôn Tỉnh Bình Định. Nó không chỉ đơnthuần mang lại những khoản thu nhập nho nhỏ cho người dân mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc gìn giữ giá trị truyền thống lịch sử, giá trị giáo dục lòng yêu thương, tôn kính cha mẹ và rèn luyện tính kiên trì khôn khéo cho con cháu. – Và những cách tạo ra sự tình bánhĐể làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều quy trình, dụng khá nhiều công sức của con người, sự dẻo dai, bền bĩ và khôn khéo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay ( nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa ) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay bằng tay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo. Để có màu xanh đen và mùi vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non ( Cây lá gai thường mọc sẵng ở những hàng ràoquanh nhà ), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là quy trình dụng khá nhiều sức. Vì nếu giãchưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm xúc không ngon. Tiếp đến là quy trình làm nhân “ nhưng ” bánh. ” Nhưng ” bánh ít lágai gồm có đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột va-ni cho thơm. Đậu xanh đem xay bửa đôi rồi ngâm và đãi cho sạchvỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tớimới trộn tiếp đậu xanh. Xào “ nhưng ” trên nhà bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, ” nhưng “ có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa. Làm bánh ít không khó, nhưng yên cầu phải khôn khéo. Sau khi đã xào “ nhưng ” xong, ngắt một miếng bột nếp, tẻ thành bánh mỏnghình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc hàng loạt nhưng bánh thành một khối tròn. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút ít dầu phộng, xoađều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mớigói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyếnrũ, huyền bí. Ngoài bánh ít lá gai, có một số ít nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhưng dừa đường hoặcnhưng tôm, thịt ; có loại gói lá chuối, có loại để trần ; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong … và đều làm chín bằngphương pháp hấp như trên, tuy nhiên người An Nhơn, Tỉnh Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhưng dừa hoặc nhưng đậu xanh gói láchuối rồi mới đem đi hấp. Vĩ thanh cho một món quà quêỞ hầu hết những làng quê Tỉnh Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai ( còn trong lễ tết thì không có bánh ít mà thay bằng bánhtét ). Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khácbiệt trong văn hoá siêu thị nhà hàng và văn hoá ứng xử của người Tỉnh Bình Định. Ngày nay, dù có nhiều loại bánh văn minh, ngon, rẻ và mê hoặc hơn nhiều, tuy nhiên người Tỉnh Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ítlá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà tặng cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ concái, nhất là con gái, như một thứ bảo vật gia truyền. Thiết nghĩ trong bộ môn kỹ thuật bậc trung học, cũng nên đưa cách làm bánh ít vào giảng dạy cho học viên, bỡi đây không đơnthuần là một nghề, mà là một nét đẹp văn hoà cần lưu truyền và gìn giữBánh ít lá gai Tỉnh Bình Định dẻo nhưng không dính răng. Cắn một miếng, đầu lưỡi sẽ thấy ngay vị ngọt của đường, vị thơm của nếp, vị béo củadầu, vị bùi của đậu, hương cay nồng của gừng, tạo một cảm xúc khoái khẩu và rất riêngBánh này còn gọi là bánh ít đất võ, được gói bằng lá chuối tơ, mướt dịu. Bánh làm rất công phu. Thoạt tiên, chọn lá gai trồng trong vườn. Láphải có hình trái tim, hơi xốp, và khô. Làm một trăm bánh ít phải hái đến hai ba thúng lá gai. Lá đem rửa sạch, luộc chín, để thật ráo nước rồiđem vào cối giã nhuyễn. Phải là trai lực lưỡng mới đủ sức quết. Gọi là quết vì là cần nhuyễn như bột nên phải giã lâu. Bấy giờ mới đem bộtnếp, thứ nếp thơm dẻo, trộn với đường bánh màu đen, sau đó đổ bột nếp vào cối. Quết tiếp hai ba chày đến khi phải thoa dầu phộng, hoặcdầu dừa vào đầu chày để bột khỏi dính và dầu được trộn đều. Nhân bánh, hoàn toàn có thể dùng đậu xanh, đậu đen hay cơm dừa nạo nấu chín với đường, đôi lúc người ta dùng tôm xào với thịt để làm nhân, đó làloại bánh ít mặn. Lá chuối cắt khoanh tròn, hơ lửa cho mềm, thoa dầu phộng và gói bánh thành hình tháp vuông rồi đem hấp cách thủy. Nhìn chiếc bánh người ta hoàn toàn có thể biết được độ ngon của bánh và kỹ thuật gói của người con gái đất võ. Bánh ít lá gai thật dẻo nhưng khôngdính răng. Cắn một miếng, đầu lưỡi sẽ thấy ngay vị ngọt của đường, vị thơm của nếp, vị béo của dầu, vị bùi của đậu, hương cay nồng củagừng, tạo một cảm xúc khoái khẩu và rất riêng. Bạn hoàn toàn có thể ăn nhiều bánh ít lá gai mà không sợ đau bụng. Theo lời lý giải của người dân đất võ thì trong lá gai có vị thuốc chống đau bụng, đặc biệt quan trọng là vị gừng tạo độ ấm và lá gai còn công dụng chữa trị bệnh no hơi. Ở vùng Tam Quan ( Hoài Nhơn ) là xứ dừa nên thường nhân bánh ítđược làm bằng bánh dừa xay nhỏ. Ăn bánh ít lá gai Tam Quan, có vị béo lẫn vị ngọt không sao quên được. Ở vùng gần biển thì nhân bánh ítlàm bằng tôm và thịt. Giống tôm rằn vị ngọt đậm đà xào với thịt ba chỉ, thêm một chút ít muối, hành, tiêu thành mùi vị biển. Bánh ít lá gai là đặc sản của Tỉnh Bình Định. Sau này, cách làm bánh lan rộng khắp vùng ven biển miền trung. Bánh ít lá gai Bình Địnhnổi tiếng vì mùi vị thơm ngon. Khi đi chơi xa hay thăm người thân trong gia đình, người Tỉnh Bình Định thường làm, hoặc mua vài ba chục bánhmang theo ăn dọc đường, hoặc để biếu, làm quà tặng. Dù để năm, sáu ngày sau, bánh vẫn ngon. Nhất là vào những ngày Tết Nguyênđán, mồng Một, Rằm, Tết Đoan Ngọ ( 5-5 ) người Tỉnh Bình Định, rồi cả Tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Phú Yên … đều làm, hay mua ba bốnchục chiếc bánh ít lá gai để cúng tổ tiên. Ông bà thường dặn con cháu : ” ” Con gái Tỉnh Bình Định không biết làm bánh ít lá gai thì chưathể làm dâu nhà chồng ” “. Làm nên chiếc bánh phải kỳ công, khó khăn vất vả cùng với sự khôn khéo, thành thục. Nguyên liệu phải đủ năm thứ : lá gai, gạo nếp, đường, đậu xanh và lá chuối. Lá gai luộc chín, cho vào cối quết nhuyễn. Gạo nếp giã, xay, nghiền thành bột. Đường thì nấu đến độ đặc sánh. Ba thứ nguyên liệu đó trộn, nhồi thật đều, rồi đem chia ra thành từng miếng. Đậu xanh đãi vỏ, đem hấp, giã mịn, viên tròn dùng làm nhân. Nhân điểm mấy miếng bí đao xắt hạt lưu, lá chuối hơ lửa gói bánh. Cho vào nồi hấpchín. Để nguội, khi ăn bóc lớp lá chuối, chiếc bánh lộ ra một mầu đen tuyền, bóng láng. Thưởng thức miếng bánh ta thấy được vị thơm rất đặc trưng, tinh khiết của lá gai, của gạo nếp, của đường, đậu xanh hòa quyệnvào nhau. Bánh ít lá gai – thứ bánh dân dã mà ngon ngọt, đậm đà, điệu đàng. Mỗi khi nhớ về xứ dừa Tỉnh Bình Định, người xa quê lạinao nao nhớ về vị thơm ngọt của bánh ít lá gai. Tỉnh Bình Định là một tỉnh thuộc khu vực duyên hải miền Trung. Xưa kia, người Tỉnh Bình Định đã từng nổi tiếng về tàisáng tạo và sự khôn khéo trong ẩm thực ăn uống, ấy thế nên đã có câu ca dao : ” Tiếng đồn Tỉnh Bình Định có tàiNấu một chén gạo nổi hai cũng đầy ” Và nhắc đến đặc sản Tỉnh Bình Định người ta không hề quên nhắc về bánh ít lá gai, một đặc sản của người dân nơiđây ! Để có chiếc bánh ít lá gai thật ngon, người ta phải trải qua nhiều quy trình, yên cầu sự khôn khéo và tỉ mẩn. Đầu tiên là phải chọn loai nếp mới, thơm, độ dẻo vừa phải đem vo kỹ, ngâm trong nước lạnh vài giờ, để ráo nước sau đó xaynhuyễn. Kế đó là chọn lá gai. Chiếc bánh ít lá gai có màu xanh đen đặc trưng, vị thơm mát là nhờ vào mùi vị đặc biệt quan trọng của chiếc lá gai. ( Cây lá gai thường mọc sẵn ở những hàng rào quanh nhà, rất phổ cập ở Tỉnh Bình Định ). Khi hái lá gai, người ta quan tâm chọn lấy loại bánhtẻ sau đó rửa sạch rồi luộc chín, vắt lấy nước đem trộn với bột nếp thành một khối dẻo. Để bánh dẻo hơn nữa, người ta đem bộtđã trộn với nước cốt lá gai giã thêm lần nữa. Đây là quy trình mất khá nhiều sức. Vì nếu giã không nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạocảm giác không dễ chịu, không ngon. Tiếp đến là quy trình làm nhân ( nhưn ) bánh. Nhân bánh bao gồm đậu xanh, đường, dừa, một chút ít bột quế hoặc bột va-ni chothơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm, đãi với nước lạnh cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa bào ra thành từng sợi nhỏ, bỏ vào chảo gang xào chung với đường cho chín tới, đem trộn tiếp đậu xanh. Hỗn hợp trên được xào với lửa liu riu cho đến khichuyển màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa. Sau khi đã xào nhân xong, ngắt một miếng bột nếp, ép mỏng dính thành hình tròn trụ trên lòng bàn tay, cho một nhúm nhân vào giữa, túmbốn bên lại cho khít mối, dùng hai tay vo tròn. Lúc này bột nếp đã bọc hàng loạt nhân bánh thành một khối. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút ít dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ điệu đàng, huyền bí. Bánh ít lá gai mang vị thơm rất đặc trưng, đó là vị tinh khiết của lá gai, vị dẻo thơm của gạo nếp, vị ngọt của đường, vị bùi đậuxanh hoà quyện vào nhau. Tuy đơn sơ mộc mạc nhưng rất thân thiện. Đây là thứ bánh không hề thiếu trong những ngày cưới xin, giỗ kỵ, lễ tết … của người dân Tỉnh Bình Định. Phân lượng này làm được khoảng chừng 10 cái bánh cỡ 10×10 cm, dày chừng 2 cm. – 500 gr lá gai tươi. – 500 gr bột nếp – 100 gr bột sắn. – 300 gr đậu xanh cà ( đậu xanh hột đã làm sạch vỏ và tách làm hai ) – 300 gr đường trắng. – 150 gr dừa khô nạo sợi thật nhỏ. – 30 gr mè trắng. – 100 gr mỡ gáy heo. – Dầu ăn. – Nước hoa bưởi ( tùy ý sử dụng hay không ). – Chuẩn bị ít lá chuối tươi, rọc bỏ cuống, trải phơi cho lá khô úa, cắt miếng cỡ 20×30 cm. Lạt tre mềm hoặcdây nhựa tựa như dùng để cột. – Xửng hấp. THỰC HÀNH1. LÀM VỎ BÁNH – Chọn lá gai tươi, sắc lá xanh đậm, không non không già. Nếu lá non quá thì không đủ bột lá còn già quá lạinhiều xơ khó giã cho mịn. Xé làm hai, tước bỏ xơ, bỏ sống lá, rửa sạch, luộc cho lá thật mềm nhừ vớt ra, đểnguội, vẩy cho thật ráo nước. Cho vào cối hoặc máy nghiền từng ít một, giã cho lá nhuyễn mịn. Lưu ý phảigiã thật mịn nếu không bánh sau khi làm sẽ lợn cợn. Sau khi luộc và giã mịn bột gai lá sẽ có màu xanh đenrất đậm. – Có thể dùng máy xay cắt có dao hình chữ S để xay cắt lá nhiều lần cho thật nhuyễn mịn. – Trộn đều bột nếp + bột sắn. Nhồi hoặc quết đều hỗn hợp bột với lá gai đã giã mịn. Phải nhồi quết thật kỷ, nếu không hỗn hợp bột sẽ bị lợn cợn làm vỏ bánh không mịn. – Nấu tan 150 gr đường với chừng ¼ lít nước, để nguội. Dùng nước đường cho vào từ từ hỗn hợp bột + lá gai, nhồi kỷ cho thật mịn bóng, hỗn hợp vừa dẻo là được. Tùy chất lượng bột, không nhất thiết phải dùng hếtlượng nước đường. – Nếu thích vỏ bánh ngọt nhiều thì tăng lượng đường trong khoảng chừng 50 gr. Bánh ngọt nhiều sẽ để được lâuhơn. – Chia lượng bột vỏ bánh này làm 10 phần đều nhau. – Mè rang vàng, để nguyên vỏ. 2. NHÂN BÁNHBánh gai – ảnh T.C – Đậu xanh cà ngâm nước nóng khoảng chừng 2 giờ, hong chín, giã nhuyễn mịn. – Mỡ gáy heo luộc chín, xắt hạt lựu nhỏ, trộn với khoảng chừng 2 muỗng cafe đường cát trắng, để chỗ thoángcho đến khi tan đường, mỡ trở trong. Vớt lấy phần mỡ, bỏ nước đường dư. – Dừa nạo sợi trụng qua nước sôi, để ráo. – Trộn đều hỗn hợp đậu xanh, mỡ hạt, dừa với khoảng chừng 150 gr đường còn lại. Nếu thích cho vào hỗn hợp nhânvài giọt tinh dầu hoa bưởi. – Chia đều nhân thành 10 phần. – Trong phần nhân bánh có người chỉ làm thuần túy với đậu xanh tán nhuyễn chứ không dùng dừa nạo vàmỡ gáy heo nhưng cũng có người chỉ dùng dừa để làm nhân và để làm bánh chay thì họ không dùng mỡ gáyheo. 3. GÓI VÀ HẤP BÁNH – Lau sạch lá chuối khô bằg khăn ướt cho lá dịu xuống ; sẵn sàng chuẩn bị ít dầu thực vật, rửa sạch tay, xoa tay với ítdầu. – Nhấn dẹp từng phần bột vỏ ra cho dày đều, đặt một phần nhân vào giữa miếng bột vỏ, bọc lại phần bột vỏrồi vo tròn lại cho đều sao cho phần vỏ có độ dày đồng đều bao quanh nhân, lăn bánh vào mè. – Lót từ hai đến ba miếng lá chuối xếp mí lên nhau liền lạc, thoa lên mặt lá trong cùng ít dầu ăn rồi đặt viênbánh vào giữa, ấn hơi dẹp ra rồi xếp kín bốn cạnh lá thành hình vuông vắn cạnh khoảng chừng 10 cm xong rồivuốt ép cho bánh chạy trải đều bên trong lớp lá, gói thêm ra ngoài ba bốn lớp lá nữa và quan tâm một lần gói làmột lớp lá xoay ngược mí xếp vào nhau chứ không phải chồng bốn lần lá lên và xếp bốn mí cùng một lúc, cóvậy bánh mới thật kín gói cho thật kín. Xếp hai bánh thành một cặp hoặc 4 – 5 cái gì cũng được miễn saocho phần mí lá mỗi bánh ép vào nhau, dùng lạt ràng lại vừa chắc tay kẻo rách nát lá. – Hấp bánh trong xửng nhiều nước và để sôi lớn lửa, xếp thưa bánh và không quá hai chồng bánh để bánhdễ chín đều. Hấp khoảng chừng 30 phút sau khi nước sôi là được. Lấy bánh ra, để bánh ra chỗ thoáng gió cho lámau ráo khô. * Bánh gai muốn để lâu, phải tăng lượng đường cho vỏ bánh gọt gắt và láng nhiều dầu vào lá gói. Bánh mớilàm qua 2 – 3 ngày mà bị chảy nhựa hoặc mốc là do chất lượng bột nhồi không kỷ và thiếu đường. Chiếc bánh ít lá gai ngoại nấu có mùi lá gai thơm ngan ngát, lớp bột mềm mịn, dai nhưng không dính lưỡi, dính tay, nhân và bánh ngọt quyện vào nhau. Tôi là một kẻ đạo nếp. Tôi hoàn toàn có thể ăn xôi thay cơm. Và tôi nghiền ăn những loại chè, bánh làm từ nếp. Ngay từ thuở bé, tôi đã được mẹ mớm cho những miếng bánh ít ngọt lịm của quê ngoại. Mãi đến lớn, tôi mới biết đó là những chiếcbánh ít lá gai khác hẳn với món bánh ít Nam Bộ bán nhiều tại TP HCM. Tác giả của những chiếc bánh ít lá gái đóchính là bà ngoại từ Tỉnh Bình Định gửi vào làm quà tặng cho cháu. Con gái lấy chồng ở TP HCM, sợ cháu mình quên quêhương nên có dịp là bà gởi quà quê vào. Tuy là ” của một đồng, công một lượng ” nhưng đó là cách bà yêu con, thương cháu không gì hoàn toàn có thể so sánh được. May mắn là mỗi dịp hè, bạn bè chúng tôi lại được mẹ đưa về quê ngoại. Đó là khoảng chừng thời hạn niềm hạnh phúc với cảnhđồng ruộng với sự yêu chiều của bà ngoại. Dĩ nhiên, đó cũng chính là lúc tôi được ăn no nê với những chiếc bánh ítđen óng, lấm tấm mè tuyệt ngon của bà. Để làm món bánh ít cho cháu từ TP HCM về quê, ngoại dậy từ sớm, đi ra sau vườn cắt lá gai. Lá gai thoạt nhìn khágiống dâu tằm ăn mọc đầy khắp ngõ quê. Ngoại cẩn trọng chọn những lá gai xanh tươi, to vừa phải để trộn vào bộtbánh vừa thơm ngon lại không gây lợn cợn. Ngoại vốn là một người không dễ chiều nên chuyện làm bánh ít lá gai là cả sựcầu kỳ công phu không qua loa như những nhà khác. Anh em chúng tôi thường phụ ngoại cắt gân lá gai để bánh ítcó vị thơm thanh tao hơn. Lá gai cắt gân xong sẽ được đem đi luộc. Từ màu xanh tươi rói, lá gai khởi đầu chuyểnsang màu xanh đen. Sau đó, ngoại mở màn việc làm vắt lá gai cho khô nước. Công đoạn mà đồng đội chúng tôi thích nhất là nhìn bà giã bột. Tiếng chày giã vào cối nghe thậm thịch vui tai. Ngoạitôi đã ngoài 60 tuổi nhưng vẫn còn khá khoẻ nên tự tay giã bột mà không cần nhờ con cháu. Bà vẫn thường đùa ” con gái Tỉnh Bình Định múa roi riết nên khỏe vậy đó “. Chúng tôi thường nhu yếu ngoại cho chúng tôi giã bột nhưng chỉđược vài phút là chán, lại chạy ra sân chơi đùa. Lá gai được để vào cối rồi lần lượt ngoại bỏ bột nếp khô vào, rồithêm đường giã đều cho quyện vào nhau. Chỉ riêng khâu bột nếp khô cũng là một nhiêu khê khác của ngoại được sẵn sàng chuẩn bị lâu từ trước. Nếp được vo sạch, ngâm nước và giã thành bột. Bột nếp được lọc lại nhiều lần để được một mầu trắng tinh. Nhân cho bánh ít cũngđược chuẩn bị sẵn sàng cực khổ không kém. Đậu xanh đãi vỏ, đem nấu rồi giã nhuyễn cho mịn. Sau khi có được loại bột đenđặc quánh vừa lòng, bà khởi đầu đem đi hấp. Ngoại là một người kỹ tính nên sợ hấp một khối bột sẽ không chín đềuhoặc bị nhão nên phải chia khối bột thành nhiều miếng nhỏ như lòng bàn tay để đem hấp. Trong lúc hấp bột bà lạithoăn thoắt sẵn sàng chuẩn bị nhân. Dừa Tam Quan được bào nhuyễn xào với đường, đậu xanh rồi vo thành viên. Bột hấp chín xong được ngoại gom lại nhồi thêm một lần nữa để bảo vệ lớp vỏ bánh ít mềm mịn đều như nhau. Sau đó, mới được chia làm nhiều phần nhỏ lần thứ 2 để gói nhân. Cuối cùng là bọc lớp lá chuối thoa ít dầu phộngvà mè. Khi mở ra, chiếc bánh ít lá gai đen tuyền, óng ả và điểm xuyết màu vàng của mè. Cảm giác tiên phong khi ănchiếc bánh ít lá gai của ngoại nấu là mùi lá thơm ngan ngát. Lớp bột mềm mịn, có độ dai nhưng không dính lưỡi, dính tay như những loại bánh nếp khác. Nhân và bánh ngọt đềunhư hoà quyện vào nhau. Thỉnh thoảng vị ngọt của bánh càng thêm ngất ngây khi cắn trúng phải vị bùi của hạt mè. Mãi đến sau này, tôi mới biết đó là một cách làm công phu tỉ mỉ vì nhiều người gói bột sống vào nhân rồi đem đi hấp. Khá là ngộ khi ngoại tôi không chăm nom vẻ hình thức bề ngoài của chiếc bánh ít. Ngoại tôi chỉ gói bánh ít tròn, dùng lá chuốitúm 2 đầu thế là xong. Trong khi, nhiều nơi lại gói bánh ít theo hình chóp như gợi hình ảnh quê nhà Tỉnh Bình Định vớichiếc Tháp bánh ít. Kỳ công và cực nhọc thế đó nhưng bà lại vui vì được ngắm nhìn lũ con cháu vui cười, chạy quanh quẩn bên cối bột. Niềm vui của bà chỉ giản dị và đơn giản như vậy, mong cháu về quê để gói bánh cho cháu ăn. Điều làm ngoại buồn là không thểlàm cho lũ chúng tôi món bánh ít lá gai trong dịp Tết vì chỉ có những hè được nghỉ nhiều, tôi mới về quê. Ngoạithường gọi đây là bánh ít đen. ” Ăn bánh ít đen nghĩa là nhiều đỏ rồi. May mắn suốt năm ” ngoại cười móm mém nóivới chúng tôi …