Bánh tro, đặc sản vùng đất Bắc Giang giản dị mà lại đầy tinh tế

Rate this post

Bánh gio gần như không phải riêng của một làng quê cụ thể nào cả (cho dù nó được cho rằng xuất phát từ Trung Quốc qua truyền thuyết về vị trung thần Khuất Nguyên) mà là thứ bánh chung của mọi phiên chợ quê. Ở khắp ba miền đất nước đều có những ngôi làng nổi tiếng làm bánh gio: Làng Đình Bảng (Bắc Giang), làng Đắc Sở (Hoài Đức, Hà Nội), bánh gio Tây Đình (Vĩnh Phúc), bánh gio Phú Yên (Bình Định), bánh gio Quảng Nam, bánh gio Yên Lãng (Thanh Hóa)…

Mỗi dịp lễ tết lại có những loại bánh đặc trưng riêng khác nhau. Đó cũng là nét độc lạ của ẩm thực ăn uống Việt : Tết Nguyên Đán có bánh chưng, bánh giầy ; Tết Hàn thực có bánh trôi, bánh chay ; Tết Trung thu có bánh dẻo, bánh nướng. ; Tết Đoan Ngọ có bánh gio .

Bánh gio là thứ bánh được làm từ gạo nếp và… gio. Không phải thứ “gio” (hay còn gọi là tro) nào cũng làm được bánh. Phải là gio của lá gai lễ ốc (lá găng), lá tầm gửi, thân lá cây vừng phơi khô hoặc gio của hạt xoan chín, gio rơm nếp. Gio được hòa tan với nước, lắng trong rồi ngâm với gạo nếp cái hoa vàng sẽ cho ra màu nâu vàng trong, lóng lánh như màu hổ phách và tạo ra vị ngai ngái đặc trưng không thể lẫn vào đâu được.

Bánh gio ( bánh tro ), tên gọi theo tiếng Tày là “ Pẻng tấu ”, loại bánh được làm vào những dịp lễ tết, được đem cúng đất trời, tổ tiên. Đây là loại bánh truyền thống lịch sử, không hề thiếu trong những nghi lễ của dân tộc bản địa Tày .
Cái tên bánh gio xuất phát từ chính nguyên vật liệu làm bánh, đó là tro mịn. Tro được sử dụng để ngâm gạo làm bánh và dùng làm nước luộc bánh. Bà con người Tày lấy củi cây tầm gửi, cây sấu, rơm nếp … đốt thành tro, vò mịn, rồi đem lọc lắng lấy nước tro màu vàng nâu .

Đem nước tro ngâm gạo trong vài tiếng cho tới khi hạt gạo mềm, bở, vò sát hai ngón tay vào hạt gạo, hạt vỡ vụn ra. Gạo làm bánh tro là gạo nếp nguyên chất, không pha gạo tẻ. Sau khi ngâm thì vớt ra, xả lại với nước sạch, để ráo. Lá gói bánh là lá dong rừng, chọn lá to, bánh tẻ, tước hết gân lá, đem luộc qua, lau khô .
Giai đoạn gói bánh yên cầu sự khôn khéo của người phụ nữ Tày. Gạo để ráo nước, pha thêm chút muối rồi được gói vào lá dong, tỉ mỉ nén chặt và tản gạo thật đều cho bánh gọn và thích mắt. Gạo phải nằm gọn trong lòng chiếc lá, xong quấn lá, bẻ mép hai đầu cho khít rồi lấy lạt mềm buộc lại, không được buộc quá chặt nhưng cũng không được buộc lỏng .

Ảnh: Myhotels

Bạn có thể ăn bánh gio khi đang đói nhưng cũng có thể ăn khi bụng đã no vì bánh gio rất dễ tiêu hóa và có thể giảm độ béo khi vừa ăn những đồ ăn giàu đạm, mỡ. Theo kinh nghiệm dân gian, bánh gio còn chữa được kiết lỵ.

Bánh gio còn gọi là bánh âm vì nó có đặc tính thiên âm, bổ âm, do được làm ra từ nguyên vật liệu có tính âm ( thực vật và những chất khoáng can xi, kali … ). Theo Đông y thì khung hình con người “ dương thường hữu dư, âm thường bất túc ”, bánh gio có vị nhạt, tính mát, tốt cho tiêu hóa thích hợp nhất với người già, trẻ nhỏ và chị em có chứng bệnh nực nội âm ỉ .
Có lẽ vì vậy ngoài thần thoại cổ xưa về bánh tro có tính năng tư âm, dưỡng âm nên được mọi người ưa dùng nhất là vào những ngày hạ nắng nóng. Phải chăng cho nên vì thế mà bánh gio được chọn là món bánh chính được cúng vào Tết Đoan Ngọ ( đoan dương, chính dương ) thời điểm nóng nhất trong năm, ngoài nguyên do từ truyền thuyết thần thoại cho rằng Tết Đoan Ngọ vốn bắt nguồn Trung Quốc với truyền thuyết thần thoại về vị trung thần Khuất Nguyên thời vua Hoài Vương.