Hiện tượng đẻ khó ở lợn và biện pháp can thiệp – Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam

Rate this post

Tóm tắt

Đẻ khó là hiện tượng kỳ lạ kỳ lạ trong quy trình sinh đẻ của vật nuôi, thời hạn sổ thai kéo dài, bào thai không được đẩy ra khỏi khung hình mẹ. Lợn nái khó đẻ là thực trạng thường gặp đối với lợn ở những trang trại chăn nuôi. Đây là yếu tố được rất nhiều người quan tâm vì nó gây tác động ảnh hưởng rất lớn tới hiệu suất cao kinh tế của trang trại.      

1. Nguyên nhân gây nên đẻ khó

Hiện tượng đẻ khó ở lợn do nhiều nguyên nhân: do con mẹ, do con con hoặc do những yếu tố khác (đỡ đẻ không đúng kỹ thuật).

1.1. Đẻ khó do bản thân con mẹ

– Do khung chậu của con mẹ quá hẹp, cho con vật chửa quá sớm khi thành thục về thể vóc chưa hoàn thiện.

– Do lợn nái quá già: lợn nái quá già sẽ không có đủ sức khỏe thể chất để liên tục sinh đẻ, sức rặn đẻ yếu, nội tiết tố mất cân bằng hoặc hormon kích đẻ quá thấp trong thời hạn đẻ.

– Do khớp bán động háng tăng trưởng không thông thường hay bị cốt hóa.

– Do cổ tử cung không mở hoặc mở không hoàn toàn, thai không hề lọt qua cổ tử cung được.

– Do vỡ nước ối quá sớm, đường đẻ quá khô.

– Tử cung bị xoắn vặn (vặn vỏ đỗ) ở thời hạn có chửa kỳ cuối.

– Do hẹp âm môn, thai đã lọt vào âm đạo song không hề ra ngoài được.

– Lợn mẹ không được chăm nom tốt: trong quy trình nuôi, lợn ít vận động khiến những loại cơ liên sườn, cơ hoành, cơ bụng yếu ảnh hưởng đến hiện tượng đẻ khó.

– Lợn nái mẹ bị bệnh truyền nhiễm trong quy trình mang thai

1.2. Đẻ khó do nguyên do bào thai

Hiện tượng này chiếm một tỷ suất cao trong các trường hợp đẻ khó như:

– Thai quá to (những con lai F1 trọng lượng sơ sinh lớn) không tương thích với xoang chậu và đường sinh dục.

– Tư thế, khunh hướng của thai trong tử cung không bình thường.

– Thai dị hình, quái thai.

Các loại hình đẻ khó hoàn toàn hoàn toàn hoàn toàn hoàn toàn hoàn toàn có thể xảy ra một cách đơn độc cũng có thể kết hợp lại với nhau. Ví dụ: trường hợp thai quá to kết hợp với đầu, cổ thai lại quay sang một bên hay úp xuống ngực hoặc trường hợp đầu thai quay sang một bên đồng thời 2 chân trước một chân thẳng, một chân bị gấp khúc.

2. Triệu chứng

Sau thời hạn kể từ khi có triệu chứng sắp đẻ từ 6 đến 12 giờ, lợn nái không đẻ được.

– Bắt đầu Open những cơn rặn dữ dội, âm ỉ từng cơn một, mỗi cơn rặn con vật lại ngoái nhìn về phía bụng

– Chân cào bới đất, bồn chồn, đi đái dắt, mỗi lần rặn cong lưng, dạng hai chân sau, áp xuất thành bụng tăng cao đứng nằm không yên

– Cơn rặn thưa dần, con vật mệt mỏi hô hấp và mạch đập hơi nhanh, thân nhiệt hạ.

– Con vật vỡ ối, sau 5 – 6 giờ mà bào thai không ra.

3. Cách can thiệp

3.1. Xử lý trường hợp đẻ khó

Trước tiên phải chẩn đoán, xác định sơ bộ xem đẻ khó do nguyên do nào, do con mẹ hay do thai để có giải pháp xử lý kịp thời.

Việc sử dụng thuốc kích đẻ phải thật thận trọng. Nếu lợn mẹ chưa vỡ ối và tử cung chưa mở thì tuyệt đối không dùng thuốc kích đẻ cho lợn.

Cho lợn nái uống nước ấm pha chút muối loãng để tương hỗ lợn nái khó đẻ. Hoặc có thể cho những lợn con đã sinh trước bú mẹ để kích thích lợn nái.

Kiểm tra ngôi thai: đeo găng tay, dùng vaseline để bôi trơn tay, chụm 5 đầu ngón tay lại cho vào âm đạo nhẹ nhàng mở cổ tử cung theo nhịp co bóp của tử cung để kiểm tra ngôi thai.

Sau khi kiểm tra ngôi thai. Có thể gặp một trong các trường hợp sau thì cách can thiệp như sau:

* Đẻ khó do đường đẻ quá khô, do vỡ ối quá sớm:

– Rửa sạch tay bằng xà phòng, đeo găng tay, bôi vaselin.

– Rửa sạch âm hộ lợn nái.

– Dùng vaselin bôi trơn âm đạo lợn, dùng tay lựa chiều kéo từng thai ra ngoài theo nhịp rặn đẻ của lợn mẹ.

* Do lợn mẹ đẻ lâu, do được chăm sóc không tốt dẫn đến sức rặn đẻ quá yếu, hoặc do không có cơn rặn đẻ:

– Kích thích tạo cơn rặn cho lợn nái bằng cách tự nhiên: xoa bầu vú cho lợn nái (2-3 phút), kích thích âm đạo lợn nái. Sau đó chờ lợn nái đẻ.

Cho lợn con vừa mới đẻ vào bú mẹ để kích thích cơn rặn đẻ ở lợn mẹ

Dùng tay kích thích âm đạo để kích thích rặn đẻ ở lợn mẹ

Thăm khám bào thai trong âm đạo lợn mẹ bằng dụng cụ chuyên dụng

Tiêm oxytocin kích đẻ sau khi đã thăm khám mà không thấy bào thai trong âm đạo lợn nái

Hoặc có thể sử dụng Ovuprost để kích đẻ sau khi đã thăm khám mà không thấy bào thai trong âm đạo lợn nái

Chú ý theo dõi, chăm sóc trong suốt quy trình lợn nái đẻ

– Nếu lợn nái không đẻ sẽ thực thi kiểm tra thăm khám bào thai trong cổ tử cung lợn nái. Nếu không thấy bào thai trong cổ tử cung thì triển khai tiêm oxytocin hoặc Ovu-prost để tiêm kích đẻ (sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

– Nếu không hiệu suất cao có thể mổ đẻ lấy thai.

Sử dụng nước muối pha loãng để thụt rửa âm đạo cho lợn sau khi sinh xong.

Sử dụng thuốc chống viêm cho lợn nái: kháng sinh Ampicilin mg/kg, tiêm 2 lần/ngày kết hợp thuốc trợ sức: Catosal 10% (tiêm bắp, 1 lần/ngày/3 ngày), cafein + vitamin B1, vitamin C (tiêm bắp, 1 lần/ngày/3 ngày).

* Do hẹp âm môn: Một bộ phận của thai đã lọt khỏi cổ tử cung nằm trong âm đạo, xong cửa âm đạo quá hẹp không đủ cho thai qua. Lúc này nên mở rộng âm môn bằng thủ pháp ngoại khoa sau đó kéo thai ra ngoài.

* Các trường hợp do tư thế, chiều hướng của thai không thông thường như thai ngang, thai ngược, gập chân, gập đầu, … ta phải điều chỉnh xoay thai quay trở lại vị trí bình thường rồi kéo thai ra.

* Những trường hợp thai quá to: xem xét tình hình bào thai, có thể can thiệp bằng tay để lôi thai ra ngoài hoặc mổ đẻ để lấy thai trong trường hợp cần thiết để cứu cả lợn mẹ và lợn con.

3.2. Phòng tránh hiện tượng đẻ khó ở lợn nái

– Chọn lợn hậu bị đúng kỹ thuật về ngoại hình (lợn có phía đầu nhỏ, to dần về phía sau). Loại bỏ những lợn dị dạng, lợn nhỏ, xương chậu hẹp hoặc lợn nái đã quá già yếu.

– Chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái tương thích để bảo vệ cho lợn nái khỏe mạnh, không mắc bệnh đặc biệt quan trọng là các bệnh truyền nhiễm. Đặc biệt trong thời gian mang thai kỳ cuối cần quan tâm chăm sóc nuôi dưỡng, cho vận động thích hợp.
Lợn nái đẻ cần được nuôi ở chuồng riêng biệt, yên tĩnh và giữ vệ sinh.

– Đỡ đẻ đúng kỹ thuật, không gây ồn ào trong khi lợn đẻ.

ThS. Vũ Thị Nguyện

Phòng Đào tạo Đại học và Sau đại học 

 Trường Đại học Hải Dương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2012), Sinh sản gia súc (Dành cho sinh viên ngành Chăn nuôi và thú y các trường đại học Nông nghiệp), Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
2. Huỳnh Văn Kháng (2008) Bệnh ngoại khoa gia súc, Nxb. Nông nghiệp Hà Nội.